Một bản phác thảo nghi phạm (trái) được vẽ từ mô tả bằng của ông Condon và ảnh chụp thủ phạm Bruno Richard Hauptmann. Ảnh: FBI

Vụ án Lindbergh: Ai đã bắt cóc và giết hại đứa trẻ này?

Trong cõi không gian bao la, Đại tá phi công Charles Lindbergh vừa ngồi đọc sách thì bỗng nghe thấy tiếng hét thất thanh của vợ kêu gào, như một lời kêu cứu tràn đầy tuyệt vọng. Một cảnh tượng khủng khiếp đang diễn ra, con trai 20 tháng tuổi của ông bị bắt cóc, và tất cả đều xoay quanh một lá thư đòi tiền chuộc và một chiếc thang hỏng được dựng sẵn ngay ngoài cửa sổ như một lời thách thức.

Đó là đêm 1/3/1932, khi mặt trăng đã lên cao, và ánh sáng yếu ớt chiếu rọi khắp căn nhà. Ít phút trước khi sự việc xảy ra, Charles Lindbergh đã ngồi trong phòng đọc sách, đắm chìm trong thế giới của những câu chữ. Nhưng tiếng động lạ bất ngờ vang lên, như một mảnh ghép cuối cùng của câu chuyện đen tối, khiến ông không thể bỏ qua.

Thư đòi tiền chuộc đầu tiên. Ảnh: FBI
Thư đòi tiền chuộc đầu tiên. Ảnh: FBI

Lá thư đòi tiền chuộc được viết bằng tiếng Anh, nhưng rõ ràng có nhiều lỗi chính tả và cấu trúc ngữ pháp. Một tay tội phạm tinh vi đã để lại những manh mối sai lầm trong lá thư này, nhằm mơ hồ hóa vết tích của hắn. Một sự đố kỵ và tàn nhẫn đáng sợ đang diễn ra trong căn nhà yên bình của Lindbergh.

Charles không hề chần chừ, ông lập tức khẩn trương tìm kiếm con trai trong nhà và khu vực xung quanh. Nhưng không có dấu vết nào, con trai ông đã biến mất một cách đáng ngạc nhiên. Thất vọng và hoảng loạn, Charles không còn cách nào khác ngoài việc gọi cảnh sát để nhờ sự giúp đỡ.

Charles Lindbergh là biểu tượng hàng không của Mỹ, người đã từng thực hiện chuyến bay xuyên Đại Tây Dương đầu tiên vào năm 1927. Anh bay từ New York đến Paris, vượt qua hàng ngàn km trong 33,5 giờ với một chiếc máy bay độc nhất vô nhị mang tên Spirit of St. Louis. Sự thành công vang dội này đã khiến người Mỹ ca ngợi Charles là “anh hùng” hay “siêu nhân đời thực”. Vì vậy, khi con trai anh bị bắt cóc, sự việc này đã trở thành tâm điểm chú ý của công chúng và được truyền thông gọi là “tội ác thế kỷ”.

Cảnh sát không tìm thấy bất kỳ dấu vân tay nào trên lá thư đòi tiền chuộc và chiếc thang hỏng. Họ tin rằng tên tội phạm đã đeo găng tay và bọc đế giày, nhằm tránh để lại bằng chứng. Lá thư yêu cầu 50.000 USD và hứa rằng trong vòng 2-4 ngày, thủ phạm sẽ thông báo địa điểm chuyển tiền.

Chỉ trong vài phút sau khi cảnh sát có mặt tại hiện trường, các đài phát thanh và tờ báo địa phương đã bùng nổ đưa tin vụ án. Hàng trăm người đã kéo đến bên ngoài nhà của Charles ở New Jersey, không hề biết rằng họ đang phá hủy những dấu vết quan trọng của kẻ bắt cóc. Ngay vào sáng hôm sau, Tổng thống Mỹ Herbert Hoover yêu cầu cơ quan điều tra liên bang, lực lượng bảo vệ bờ biển, hải quan và sở di trú liên bang hỗ trợ truy tìm thủ phạm.

Sở Cảnh sát New Jersey đã treo thưởng lên đến 25.000 USD và gia đình của Charles cũng chi thêm 50.000 USD cho người tìm ra thủ phạm. Charles nói với cảnh sát rằng con trai được đặt vào nôi lúc 19h30. “Chúng tôi sau đó vẫn thấy nó, bà vú còn chăm sóc rất cẩn thận. Khi vợ tôi trở về lúc 20h30, đứa bé đã biến mất”, ông tâm sự.

Ngày 6/3/1932, một lá thư đòi tiền chuộc mới được gửi từ Brooklyn đến nhà của Charles, tiền chuộc đã tăng lên 70.000 USD. Nhưng dù cảnh sát đã tiến hành điều tra, không có manh mối mới nào được phát hiện.

Trong khi cảnh sát New Jersey đang phối hợp với gia đình Charles để điều tra vụ án, một ông giáo già 72 tuổi tên John Condon từ Bronx đã viết một lá thư cho một tờ báo địa phương, tỏ ý muốn trở thành trung gian giữa bọn bắt cóc và gia đình Charles.

Cậu bé Augustus Lindbergh bị bắt cóc khi 20 tháng tuổi. Ảnh: FBI
Cậu bé Augustus Lindbergh bị bắt cóc khi 20 tháng tuổi. Ảnh: FBI

Ba ngày sau đó, ông Condon nhận được một lá thư từ những kẻ tự xưng là kẻ bắt cóc, yêu cầu ông làm trung gian giữa họ và gia đình Charles. Cha của cậu bé, trong tình trạng tuyệt vọng, đã chấp nhận để Condon thực hiện theo yêu cầu trong lá thư. Ông đã đăng quảng cáo rao vặt trên một tờ báo khác và sắp xếp cuộc gặp với một trong những kẻ bắt cóc tại nghĩa trang Woodlawn ở khu vực Bronx. Vì cuộc gặp diễn ra vào buổi tối, ông không thể nhìn rõ mặt của thủ phạm.

Hắn tự xưng là “John” và tuyên bố là thành viên của một băng đảng người Scandinavi. Hắn nói rằng đứa trẻ đang ở trên một chiếc thuyền ngoài khơi và sẽ trả con tin khi nhận được tiền chuộc.

Khi ông Condon có dấu hiệu nghi ngờ, hắn hứa sẽ gửi lại bộ đồ ngủ của cậu bé như một bằng chứng nhận dạng. Và đúng như lời hứa, vào ngày 16/3/1932, Condon nhận được một bộ đồ ngủ của trẻ em qua đường bưu điện. Charles khẳng định rằng đó là đồ của Augustus, con trai ông.

Tiền chuộc được đặt trong một hộp thủ công thiết kế đặc biệt, có khả năng nhận diện dễ dàng trong tương lai. Những tờ tiền này không được đánh dấu, nhưng số serie của từng tờ đã được ghi lại để có thể theo dõi. Đây là một điều có lợi cho cảnh sát điều tra, vì loại tiền giấy này sắp bị thu hồi và cấm lưu thông. Nếu thủ phạm tiêu số tiền, hắn sẽ dễ bị lần dấu vết hơn

 

Ngày 2/4/1932, Condon tình cờ gặp gã tự xưng là “John” để trao khoản tiền đòi chuộc. Điều đáng chú ý là hắn không chỉ đưa ra thông tin về việc hai phụ nữ chăm sóc con tin mà còn giữ kín những chi tiết khác.

Đến ngày 12/5/1932, trong một khu rừng ngoại ô Trenton, New Jersey, một tài xế không may phát hiện thi thể bé Augustus, cách nhà đại tá Charles khoảng 20 km. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy nạn nhân đã mất mạng khoảng 2 tháng trước. Bác sĩ kết luận nguyên nhân tử vong do bị đánh vào đầu, tuy nhiên không có dấu vết nào để cho thấy hung thủ đã tại nạn tại hiện trường.

Với không có manh mối nào khác, cảnh sát bắt đầu theo dõi số seri trên các đồng tiền chuộc mà Condon đã trao cho kẻ bắt cóc. Một cuốn sổ nhỏ chứa các số seri đã được phân phát cho các doanh nghiệp và ngân hàng ở New York.

Cuối cùng, vào tháng 9/1934, cảnh sát xác định được nghi phạm là Richard Hauptmann, một thợ mộc nhập cư từ Đức. Khi Richard bị bắt ở New York, cảnh sát đã phát hiện số tiền hơn 14.000 USD với số seri trùng khớp với số tiền chuộc đã trao cho kẻ bắt cóc. Tuy nhiên, Richard đã bác bỏ mọi cáo buộc về tội bắt cóc và cho biết số tiền là của một người bạn đã qua đời vào tháng 3/1934 và để lại cho anh ta khi trở về Đức.

Richard khai rằng anh ta tình cờ tìm thấy một hộp tiền của bạn và đã sử dụng nó do bạn đó nợ anh ta một khoản tiền. Tuy nhiên, những bằng chứng của cảnh sát đã chứng minh sự trái ngược của lời khai này. Đầu tiên, cảnh sát tìm thấy một cuốn sổ tay chứa bản phác thảo của một cái thang giống với cái đã được tìm thấy tại nhà của gia đình Charles. Thứ hai, số điện thoại và địa chỉ của ông Condon được viết rõ ràng trên tường nhà của Richard. Cuối cùng, cảnh sát thu giữ được những thanh thang trong xưởng gỗ cũ của Richard, và các chuyên gia xác định rằng chúng là loại gỗ được dùng để làm cái thang tại hiện trường.

Phiên tòa xét xử Richard bắt đầu vào ngày 3/1/1935 và kéo dài cho đến ngày 13/2/1935. Bồi thẩm đoàn tuyên án Richard phạm tội Giết người cấp độ 1 và bị tử hình bằng ghế điện vào ngày 3/4 của năm sau tại nhà tù bang New Jersey ở Flemington.

Vụ án này đã thu hút sự quan tâm lớn từ truyền thông Mỹ, và Richard đã trở thành “kẻ bị căm ghét nhất thế giới.” Vụ án này đã gây chấn động mạnh mẽ cho cả nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20.

29/07 · 09:01

Trong cõi không gian bao la, Đại tá phi công Charles Lindbergh vừa ngồi đọc sách thì bỗng nghe thấy tiếng hét thất thanh của vợ kêu gào, như một lời kêu cứu tràn đầy tuyệt vọng. Một cảnh tượng khủng khiếp đang diễn ra, con trai 20 tháng tuổi của ông bị bắt cóc, và tất cả đều xoay quanh một lá thư đòi tiền chuộc và một chiếc thang hỏng được dựng sẵn ngay ngoài cửa sổ như một lời thách thức.

Đó là đêm 1/3/1932, khi mặt trăng đã lên cao, và ánh sáng yếu ớt chiếu rọi khắp căn nhà. Ít phút trước khi sự việc xảy ra, Charles Lindbergh đã ngồi trong phòng đọc sách, đắm chìm trong thế giới của những câu chữ. Nhưng tiếng động lạ bất ngờ vang lên, như một mảnh ghép cuối cùng của câu chuyện đen tối, khiến ông không thể bỏ qua.

Lá thư đòi tiền chuộc được viết bằng tiếng Anh, nhưng rõ ràng có nhiều lỗi chính tả và cấu trúc ngữ pháp. Một tay tội phạm tinh vi đã để lại những manh mối sai lầm trong lá thư này, nhằm mơ hồ hóa vết tích của hắn. Một sự đố kỵ và tàn nhẫn đáng sợ đang diễn ra trong căn nhà yên bình của Lindbergh.

Charles không hề chần chừ, ông lập tức khẩn trương tìm kiếm con trai trong nhà và khu vực xung quanh. Nhưng không có dấu vết nào, con trai ông đã biến mất một cách đáng ngạc nhiên. Thất vọng và hoảng loạn, Charles không còn cách nào khác ngoài việc gọi cảnh sát để nhờ sự giúp đỡ.

Một bản phác thảo nghi phạm (trái) được vẽ từ mô tả bằng của ông Condon và ảnh chụp thủ phạm Bruno Richard Hauptmann. Ảnh: FBI
Một bản phác thảo nghi phạm (trái) được vẽ từ mô tả bằng của ông Condon và ảnh chụp thủ phạm Bruno Richard Hauptmann. Ảnh: FBI

Charles Lindbergh là biểu tượng hàng không của Mỹ, người đã từng thực hiện chuyến bay xuyên Đại Tây Dương đầu tiên vào năm 1927. Anh bay từ New York đến Paris, vượt qua hàng ngàn km trong 33,5 giờ với một chiếc máy bay độc nhất vô nhị mang tên Spirit of St. Louis. Sự thành công vang dội này đã khiến người Mỹ ca ngợi Charles là “anh hùng” hay “siêu nhân đời thực”. Vì vậy, khi con trai anh bị bắt cóc, sự việc này đã trở thành tâm điểm chú ý của công chúng và được truyền thông gọi là “tội ác thế kỷ”.

Cảnh sát không tìm thấy bất kỳ dấu vân tay nào trên lá thư đòi tiền chuộc và chiếc thang hỏng. Họ tin rằng tên tội phạm đã đeo găng tay và bọc đế giày, nhằm tránh để lại bằng chứng. Lá thư yêu cầu 50.000 USD và hứa rằng trong vòng 2-4 ngày, thủ phạm sẽ thông báo địa điểm chuyển tiền.

Chỉ trong vài phút sau khi cảnh sát có mặt tại hiện trường, các đài phát thanh và tờ báo địa phương đã bùng nổ đưa tin vụ án. Hàng trăm người đã kéo đến bên ngoài nhà của Charles ở New Jersey, không hề biết rằng họ đang phá hủy những dấu vết quan trọng của kẻ bắt cóc. Ngay vào sáng hôm sau, Tổng thống Mỹ Herbert Hoover yêu cầu cơ quan điều tra liên bang, lực lượng bảo vệ bờ biển, hải quan và sở di trú liên bang hỗ trợ truy tìm thủ phạm.

Sở Cảnh sát New Jersey đã treo thưởng lên đến 25.000 USD và gia đình của Charles cũng chi thêm 50.000 USD cho người tìm ra thủ phạm. Charles nói với cảnh sát rằng con trai được đặt vào nôi lúc 19h30. “Chúng tôi sau đó vẫn thấy nó, bà vú còn chăm sóc rất cẩn thận. Khi vợ tôi trở về lúc 20h30, đứa bé đã biến mất”, ông tâm sự.

Ngày 6/3/1932, một lá thư đòi tiền chuộc mới được gửi từ Brooklyn đến nhà của Charles, tiền chuộc đã tăng lên 70.000 USD. Nhưng dù cảnh sát đã tiến hành điều tra, không có manh mối mới nào được phát hiện.

Trong khi cảnh sát New Jersey đang phối hợp với gia đình Charles để điều tra vụ án, một ông giáo già 72 tuổi tên John Condon từ Bronx đã viết một lá thư cho một tờ báo địa phương, tỏ ý muốn trở thành trung gian giữa bọn bắt cóc và gia đình Charles.

Ba ngày sau đó, ông Condon nhận được một lá thư từ những kẻ tự xưng là kẻ bắt cóc, yêu cầu ông làm trung gian giữa họ và gia đình Charles. Cha của cậu bé, trong tình trạng tuyệt vọng, đã chấp nhận để Condon thực hiện theo yêu cầu trong lá thư. Ông đã đăng quảng cáo rao vặt trên một tờ báo khác và sắp xếp cuộc gặp với một trong những kẻ bắt cóc tại nghĩa trang Woodlawn ở khu vực Bronx. Vì cuộc gặp diễn ra vào buổi tối, ông không thể nhìn rõ mặt của thủ phạm.

Hắn tự xưng là “John” và tuyên bố là thành viên của một băng đảng người Scandinavi. Hắn nói rằng đứa trẻ đang ở trên một chiếc thuyền ngoài khơi và sẽ trả con tin khi nhận được tiền chuộc.

Khi ông Condon có dấu hiệu nghi ngờ, hắn hứa sẽ gửi lại bộ đồ ngủ của cậu bé như một bằng chứng nhận dạng. Và đúng như lời hứa, vào ngày 16/3/1932, Condon nhận được một bộ đồ ngủ của trẻ em qua đường bưu điện. Charles khẳng định rằng đó là đồ của Augustus, con trai ông.

Tiền chuộc được đặt trong một hộp thủ công thiết kế đặc biệt, có khả năng nhận diện dễ dàng trong tương lai. Những tờ tiền này không được đánh dấu, nhưng số serie của từng tờ đã được ghi lại để có thể theo dõi. Đây là một điều có lợi cho cảnh sát điều tra, vì loại tiền giấy này sắp bị thu hồi và cấm lưu thông. Nếu thủ phạm tiêu số tiền, hắn sẽ dễ bị lần dấu vết hơn

 

Share:

Add comment:

error: Content is protected !!